VIỆC LÀM THUỶ SẢN
Tin tức    21/07/2020 11:12:29    Lượt xem: 163
Một số bệnh phổ biến trên tôm nuôi (Phần 2)
4. Bệnh đầu vàng (YHV)
- Nguyên nhân: Tác nhân gây bệnh là do phức hợp virus gây bệnh đầu vàng (yellow head virus – YHV) và virus gây hội chứng liên quan đến mang (gill-associated virus – GAV). Hiện nay, YHV được ghi nhận có 6 kiểu gen khác nhau.
- Chẩn đoán: Tôm nhiễm bệnh có biểu hiện vàng hoặc nâu ở mang, vàng ở phần đầu ngực, toàn thân có màu nhợt nhạt, sưng tuyến tiêu hóa làm cho đầu xuất hiện màu vàng. Bệnh gây tỷ lệ chết cao, có thể lên đến 100% sau 3 đến 5 ngày nhiễm bệnh. Kết quả PCR dương tính với YHV/GAV.
Hình 11. Tôm sú chết do nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV
Hình 12. Cận cảnh phần đầu tôm sú nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV.
Hình 13. Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh đầu vàng YHV/GAV (bên trên) so với tôm khỏe (bên dưới)
-
Phòng trị bệnh: Áp dụng phương pháp phòng bệnh và ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh này bằng cách chọn lọc và kiểm tra con giống sạch bệnh trước khi thả nuôi, xử lý chất lượng nguồn nước và môi trường xung quanh cho phù hợp (Trần Thị Mỹ Duyên).
5. Bệnh phân trắng (WFD/WFS)
-
Nguyên nhân: Hiện chưa xác định được chính xác nguyên nhân, có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng tôm bệnh phân trắng do nhóm vi khuẩn Vibrio, cũng có những nghiên cứu khác cho rằng nguyên nhân do trùng hai tế bào (Gregarine) hoặc nhóm ký sinh trùng có tên Vermiform. Một vài nghiên cứu cho thấy tôm nhiễm bệnh có sự hiện diện của nhiều loại mầm bệnh khác nhau như vi khuẩn (nhóm Vibrio), ký sinh trùng (Vermiform, trùng hai tế bào – Gregarine), virus.
-
Chẩn đoán: Tôm bệnh thải ra phân trắng, thỉnh thoảng sợi phân tôm cũng có màu vàng nhạt, gan tụy teo hay mềm nhũn, tôm bệnh phân trắng thường kèm theo triệu chứng mềm vỏ hay vỏ lỏng lẻo. Một vài ngày sau khi nhiễm bệnh, tôm sẽ yếu và bơi lội lờ đờ trên mặt nước, tôm yếu dần và chết. Nên tiến hành các xét nghiệm đơn giản nhằm xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh để có hướng xử lý thích hợp. Việc đầu tiên và đơn giản nhất là kiểm tra ký sinh trùng trong ruột tôm bằng cách cắt một đoạn ruột tôm và soi dưới kính hiển vi quang học xem có nhiễm ký sinh trùng hay không. Nếu tôm không nhiễm ký sinh trùng, tiến hành kiểm tra tổng vi khuẩn Vibrio trong môi trường ao nuôi, nếu mật số Vibrio quá cao, có thể nguyên nhân do vi khuẩn Vibrio.
Hình 14. Dấu hiệu lâm sàng của WFS. (a) Sợi phân trắng nổi trên mặt nước; (b) Sợi phân trắng trên sàng ăn; (c) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu trắng; (d) Tôm nhiễm bệnh ruột có màu vàng nâu
Phòng trị bệnh: Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp do có nhiều tác nhân gây bệnh phân trắng. Theo khuyến cáo của các chuyên gia Thái Lan là người nuôi tôm nên giảm mật độ nuôi trong mùa nắng nóng. Điều này làm giảm hàm lượng vật chất hữu cơ ở nền đáy ao và làm giảm sự phát triển của vi khuẩn Vibrio spp. Bên cạnh đó, một số nhà nuôi tôm đã thành công trong việc kiểm soát bệnh này bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học có chứa vi khuẩn Bacillus subtilis để hạn chế sự phát triển của nhóm vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh. Nuôi ghép tôm với cá rô phi cũng có tác dụng tốt trong kiểm soát nhóm vi khuẩn Vibrio phát triển trong ao nuôi. Để khống chế trùng hai tế bào, sử dụng tỏi với liều lượng 5-10 g/kg thức ăn cho hiệu quả cao.
6. Bệnh Taura
-
Nguyên nhân: Bệnh do taura syndrome virus (TSV) gây ra.
-
Chẩn đoán: Tôm thẻ chân trắng nhiễm bệnh có màu đỏ nhạt, đặc biệt là phần đuôi. Ngoài ra, tôm còn có dấu hiệu khác như mềm vỏ và ruột rỗng. Hội chứng Taura gây chết với tỷ lệ cao (thường tỷ lệ gây chết từ 40% đến 90%) và lây lan nhanh. Virus Taura có thể nhiễm trên tôm sú gây ra bệnh đỏ đuôi. tôm có màu đỏ ở toàn bộ vùng đuôi quạt và các đốt thân kế tiếp ngược lên phía đầu; chân bò, chân bơi cũng có màu đỏ.
Hình 15. Tôm thẻ chân trắng bệnh Taura (bên dưới) so với tôm khỏe (bên trên)
-
Phòng trị bệnh: Áp dụng phương pháp phòng bệnh tổng hợp. Tương tự như phòng bệnh bệnh đốm trắng WSSV và bệnh đầu vàng, chọn con giống không có mầm bệnh sau khi qua kiểm tra PCR hoặc chọn con giống không nhiễm bệnh SPF (specific Pathogen Free).
VIỆC LÀM THUỶ SẢN